Trang chủ » Dành Cho Học Sinh
Video luyện thi Đại học môn Toán năm 2014 - Đề số 1
3:48 PM |Mình xin giới thiệu cho thầy cô và các bạn học sinh video luyện thi đại học môn Toán năm 2014 - Đề thi số 1, hi vọng sẽ giúp đỡ được phần nào thầy cô trong quá trình giảng dạy, và các bạn học sinh trong quá trình ôn luyện thi vào đại học năm nay.
Đây sẽ là 1 seri các bài viết tổng hợp các video do mình chọn lọc, từ hướng dẫn, lý thuyết, chữa bài tập, đề thi từ nhiều năm đổ lại đây, để giúp thầy cô và các bạn học sinh có 1 kiến thức tổng quan nhất.
Các bạn cũng có thể lên mạng, lên các trang youtube xem, nhưng sẽ không có được 1 sự tổng hợp nào chi tiết cả, quá nhiều video và không sắp xếp theo một trình tự nào cả, vì thế sẽ khiến các bạn trong việc tìm kiếm và tổng hợp nội dung, vì thế mình hi vọng mọi người sẽ ủng hộ mình trong quá trình tổng hợp này.
Dưới đây là video chữa đề thi đại học môn toán năm 2011 - Đề số 1 - chia làm 3 phần:
Đề số 1 - Phần 1
Đề số 1 - Phần 2
Đề số 1 - Phần cuối
Các bạn hãy tham gia các Group và Page facebook dưới đây để cùng làm bài tập với các bạn học sinh nhé!
Xem tiếp…
Đây sẽ là 1 seri các bài viết tổng hợp các video do mình chọn lọc, từ hướng dẫn, lý thuyết, chữa bài tập, đề thi từ nhiều năm đổ lại đây, để giúp thầy cô và các bạn học sinh có 1 kiến thức tổng quan nhất.
Các bạn cũng có thể lên mạng, lên các trang youtube xem, nhưng sẽ không có được 1 sự tổng hợp nào chi tiết cả, quá nhiều video và không sắp xếp theo một trình tự nào cả, vì thế sẽ khiến các bạn trong việc tìm kiếm và tổng hợp nội dung, vì thế mình hi vọng mọi người sẽ ủng hộ mình trong quá trình tổng hợp này.
Dưới đây là video chữa đề thi đại học môn toán năm 2011 - Đề số 1 - chia làm 3 phần:
Đề số 1 - Phần 1
Đề số 1 - Phần 2
Đề số 1 - Phần cuối
Hình ảnh tổng hợp các group luyện thi đại học các môn của Website: chukienthuc.com |
Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu qua bài Sóng Của Xuân Quỳnh
4:49 PM |
“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.
Sóng - Xuân Quỳnh |
Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.
Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:
“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ”
trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:
“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ” .
Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:
“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”
cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :
“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”
Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:
“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”
Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:
“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”
“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:
“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”
(Xuân Diệu)
Sóng - Xuân Quỳnh |
Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:
“Dẫu xuôi về phương Bắc ...
Hướng về anh một phương”.
Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.
Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:
“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ” .
Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.
Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !
Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.
“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được” .
Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.
[ST]
Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà của Nguyễn Tuân
4:38 PM |
Tuỳ bút "Người lái đò sông Đà" là một trong những tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tuỳ bút này Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với công cuộc xây dựng cho Tây Bắc thêm sáng sủa được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sỹ tài hoa trong nghề của mình.
Chẳng phải tình cờ khi, để nói về màu sắc của núi sông, Nguyễn Tuân chỉ dùng một chữ vàng. Để rồi sau đó, ông sẽ dùng chữ vàng mười để gọi tên vẻ đẹp và giá trị quý báu của con người lao động. Điều đó chứng tỏ, trong cảm xúc thẩm mĩ của tác giả "Người lái đò sông Đà", con người đẹp hơn tất cả và quý giá hơn tất cả. Với " Người lái đò sông Đà" Nguyễn Tuân đã dựng hình ảnh một sông Đà mà ông đã từng muốn" trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một" nhưng cũng rất đúng nếu nói rằng thiên nhiên ấy cũng chính là kẻ tôn vinh số một giá trị của con người. Người lái đò sông Đà kia sẽ là ai nếu con thuyền của ông không phải vật lộn với "Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá"? Có thể người ấy sẽ mang một vẻ đẹp nào đó của một ông ngư, ông chài, ông lái đò nhưng sẽ không trở thành đối tượng của một khúc hùng ca. Trái lại cái hùng vĩ của sóng, của thác, của sông nước Đà Giang đã làm sáng chói lên hình ảnh con người đẹp nhất, kiêu hùng nhất, người lái đò trên sông Đà người anh hùng người nghệ sĩ chế ngự thiên nhiên hùng mạnh.
Người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân |
Người lái đò Sông Đà trước hết là một ông già bảy mươi tuổi đã giành một phần lớn cuộc đời mình cho nghề lái đò dọc trên sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện: " Trên dòng sông Đà ông xuôi, ông ngược hơn 100 lần rồi, chính tay giữ lái đò sáu chục lần" trong thời gian hơn chục năm làm nghề lái đò cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này. Đây là một con người từng trải, hiểu biết, rất thành thạo trong nghề lái đò và đã đạt đến trình độ " Bằng cách lấy mắt và nhớ tỷ mỉ như đóng đinh vào tất cả những luông nước của tất cả những con thác hiểm trở". Nguyễn Tuân đã bày tỏ sự khâm phục của mình đối với con người này " sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà ông đã thuộc cả đến dấu chấm than, chấm câu và cả những đoạn xuống dòng".
Thoạt nhìn, đó là một cuộc đấu không cân sức. Bởi đó là trận đấu mà ở bên này là một thiên nhiên lớn lao, dữ dội và hiểm độc, với sức mạnh được nâng lên hàng thần thánh, có sông nước hò réo quyết vật ngửa mình thuyền, có thạch trận vời đủ ba lớp trùng vi vây bủa, được trấn giữ bởi những hòn đá ngỗ ngược, hỗn hào và nham hiểm; còn bên kia là con người bé nhỏ, không hề có phép màu, vũ khí trên tay chỉ là chiếc cán chèo - những chiếc que thật mỏng manh trước nguy nga sóng thác - trên một con đò đơn độc hết chỗ lùi. Người xưa vẫn coi " Cưỡi con gió mạnh, đạp đầu sóng dữ" là biểu trưng cho một lý tưởng sống anh hùng. Ông lái đò này dưới ngòi bút của Nguyễn Tuân cũng chính là con người cưỡi gió đạp sóng theo cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Người lái đò của Nguyễn Tuân không có phép màu, ông đâu có đôi cánh tay Hec Quyn để sánh được với sức lực của Thuỷ Tinh. Nhưng ông đã " Nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá", cái kinh nghiệm đò giang sông nước lên thác xuống ghềnh và cái trí tuệ ấy đã khiến cho ông lái dù trong tay chỉ có cây chèo (cái que nhỏ giữa nguy nga sóng thác) vẫn có thể phá thành vượt ải như một chiến tướng bách thắng trong sự nghiệp đấu tranh chống thiên nhiên. Một cảm hứng hào hùng đã khiến ngòi bút Nguyễn Tuân tả một cuộc vượt thác Sông Đà vẫn diễn ra thường nhật thành một trận đánh biến ảo hấp dẫn, một khúc hát ca ngợi chiến công của một bậc anh hùng. Cuộc chiến đấu của người lái đò có thể chia thành 3 chặng vượt vòng vây của thác nước, đá sông.
Ở trùng vi thứ nhất: Vừa vào trận, sóng nước, đá sông hò la vang dậy, ùa vào bẻ gãy cán chèo vô khí, đá trái thúc vào bụng, vào hông thuyền. Nước như đô vật túm thắt lưng ông đò rồi đánh miếng đòn độc, đánh vào chỗ hiểm. Nhưng ông đò cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt cuống lái, mặt méo lệch đi. Con thuyền bơi chèo vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn và tỉnh táo của người cầm lái, ông đò thực là một chiễn sĩ dũng cảm, rất bình tĩnh nén mọi đau đớn để chiến thắng kẻ thù.
Ở trùng vi thứ hai: Kẻ địch thay chiến thuật, chúng tăng thêm nhiều cửa tử .Cửa sinh bố trí lệch sang phía tả ngạn, lập lờ, bí hiểm hơn ở trùng vi trước, hòng đánh lừa con thuyền. Nhưng ông đò đã nắm chắc binh pháp của thân sông, thần đá thuộc quy luật phục kích của lũ đá. Ông"Cưỡi lên thác Sông Đà phải cưỡi đến cùng như là cưỡi hổ". Nắm chặt được cái bờm của sóng đúng luồng rồi ông đò ghì cương lái phóng nhanh vào cửa sinh, lái miết một đường chéo con thuyền lướt nhanh, bất ngờ khiến cả bọn đá thủy quân không kịp trở tay, khiến " Cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đá tiu nghỉu cái mặt xanh lè thất vọng". Ông đò người chỉ huy ấy thật thông minh tài giỏi xiết bao.
Ở trùng vi thứ ba, ít cửa hơn, bên phải, bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở ngay giữa con thác. Ông đò như một người chỉ huy dày dạn cứ phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa, giữa đó " Vút vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được" . Bản hùng ca vượt thác lên đến cao trào. Con thuyền lướt nhanh trên đầu sóng, sóng nước của Sông Đà. Trên con thuyền vun vút đó chúng ta nhìn rõ hình ảnh người lái đò anh hùng vừa dũng cảm thông minh vừa thật là tài hoa. Vậy là thác dữ đã không chặn bắt được con thuyền. Cuối cùng, vẫn là con người chiến thắng sức mạnh thần thánh của tự nhiên, vẫn là con người cưỡi lên thác ghềnh, xé toang hết lớp này đến lớp kia của trùng vi thạch trận, để những thằng đá tướng phải lộ sự tiu nghỉu, thất vọng, qua bộ mặt xanh lè. Người lái đò đã đè sấn được sóng gió, nắm chặt cái bờm sóng mà thuần phục sự hung hãn của dòng sông.
Cần nói thêm, trong cuộc chiến này nguyên nhân làm nên chiến thắng của con người không hề bí ẩn. Đó không phải là gì khác hơn sự ngoan cường, chí quyết tâm, và nhất là kinh nghiệm đò giang sông nước, lên thác xuống ghềnh đã giúp cho con người nắm chắc binh pháp của thần sông, thần đá, và qua đó, khuất phục dòng thác hồng hộc hơi thở của hùm beo. Người lái đò Sông Đà chính là khúc hùng ca ca ngợi con người, ca ngợi chí của con người, ca ngợi lao động vinh quang đã đưa con người tới thắng lợi huy hoàng trước sức mạnh tựa thánh thần của dòng sông hung dữ. Đấy chính là những yếu tố làm nên chất vàng mười của nhân dân Tây Bắc và của những người lao động nói chung.
Ở phần vĩ thanh của khúc ca vượt thác, nhà văn chuyển gam với mấy câu tả êm nhẹ câu kể thủ thỉ, tâm tình " Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hang lạnh. Sóng thác, xèo xèo tan trong trí nhớ. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn tán về cá anh vũ, cá dầm xanh. Chả thấy ai bàn thêm một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua". Ở đây ta lại thấm thía thêm một vẻ đẹp nữa của những người lái đò, chèo đò. Họ anh hùng xiết bao, cuộc sống của họ là ngày nào cũng chiến đấu với Sông Đà dữ dội để giành lấy sự sống từ tay những con thác nên cũng "Không có gì là hồi hộp đáng nhớ". Cái phi thường đã trở thành bình thường. Phẩm chất chiến sĩ đã hoà quyện với phong thái tài tử, nghệ sĩ. Dường như cảm nhận đầy đủ vẻ đẹp mang"Chất vàng mười" của những người lao động bình dị ở Tây Bắc trên một chặng vượt thác Sông Đà Nguyễn Tuân đã không cầm lòng được. Trước khi chia tay họ để gặp lại dòng sông, ông giữ lại một ước nguyện thật đẹp đẽ chân tình " Tôi nghĩ nếu sau này làm phim màu về Sông Đà, cũng phải đưa ống quay phim lên tàu bay, cho bay là là trên thác mà gí máy xuống mà lượn ống máy theo những luồng sinh của thác trên thác hiên ngang một người lái đò Sông Đà có tự do, vì người lái đò ấy đã nắm được cái quy luật tất yếu của dòng nước Sông Đà.
Hình tượng người lái đò sông Đà - Nguyễn Tuân |
Trong Người lái đò sông Đà, con người được ví với khối vàng mười quý báu lại chỉ là những ông lái, nhà đò nghèo khổ, những người trên hình hài còn in hằn những dấu vết khắc nghiệt của công việc chở thuyền quá đỗi gian nan, cực nhọc, hiểm nguy. Và còn điều nữa: Tất cả những người lái đò trong thiên tuỳ bút, không trừ một ai, đều làm lụng âm thầm, giản dị, tuyệt đối vô danh, vì tác giả nhất định không chịu nêu tên tuổi của người nào trong họ. Song cũng lại Nguyễn Tuân cho thấy, những con người vô danh đó đã nhờ lao động, nhờ cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên mà trở nên lớn lao, kì vĩ. Những người lái đò rất bình thường ấy không mang tên họ của cá nhân. Nhưng vì thế mà trong sự đối mặt với thiên nhiên nghiệt ngã, họ lại hiện lên như đại diện của con người. Có lẽ đấy chính là nguồn cảm hứng đã thôi thúc Nguyễn Tuân quyết tung ra đạo binh hùng hậu của ngôn từ để miêu tả cho thật hùng tráng và hấp dẫn cuộc thuỷ chiến của ông lái đò với dòng sông để đưa thuyền vượt thác. Sử dụng nghệ thuật của ngôn từ rồi nghệ thuật của hội hoạ, âm nhạc với những tri thức trong chiến đấu, trong võ thuật với bao nhiêu hiểu biết rộng và sâu khác nữa để khắc hoạ, ngợi ca nhân vật mà vẫn cảm thấy chưa đủ đến đây nhà văn dùng thêm phương pháp của điện ảnh. Hình tượng người lái đò hiên ngang, sừng sững hiện lên trong ống quay phim của nhà nghệ sĩ, cao lớn, lung linh như một thiên thần. Cùng với vẻ đẹp của người anh hùng trí dũng tài hoa từng chiến thắng ghềnh thác, người lái đò thêm một "Chất vàng" nữa người lao động có tự do đạt tới độ thành thục, điêu luyện vì làm chủ được thiên nhiên, chế ngự thiên nhiên, đem lại cuộc sống ấm no cho đời mình, sự giàu đẹp cho Tổ quốc. Ca ngợi người lao động phải chăng Nguyễn Tuân muốn ngợi ca lao động ngợi ca con người? Con người dưới con mắt nghệ sĩ tài hoa, uyên bác Nguyễn Tuân luôn luôn là hiện thân của cái đẹp của nghệ thuật của sự bất tử. Chính điều này người nghệ sĩ tài hoa Nguyễn Tuân đã có điểm gặp gỡ với người nghệ sĩ Nga M.Gorki " Con người! Tiếng ấy thật tuyệt diệu! Tiếng ấy vang lên kiêu hãnh và hùng tráng xiết bao".
Đọc " Người lái đò Sông Đà" suy ngẫm về nhân vật ông đò chúng ta nhớ tới Huấn Cao, hình tượng đặc sắc trong tác phẩm " Chữ người tử tù" một sáng tác của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám. Tất nhiên nhân vật ông đò trong tuỳ bút không hiện lên với đầy đủ phẩm chất, tính cách như nhân vật ông Huấn Cao trong truyện ngắn. Họ có nhiều nét khác nhau vì họ xuất hiện trong hai thời kỳ khác nhau của lịch sử đất nước, cũng vì những chuyển biến trong phong cách nghệ thuật và cảm hứng thẩm mĩ của nhà văn. Song cả hai đều giống nhau ở chất nghệ sĩ, chất chiến sĩ vẻ đẹp thăng hoa của con người trong vị trí xã hội, trong công việc cụ thể khi làm người và một nét chung nữa, ông đò cũng như ông Huấn đều rạng ngời phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: Tài hoa, uyên bác đầy sáng tạo bất ngờ trong dùng từ, viết câu và nồng ấm một tình yêu con người. Cảm ơn Nguyễn Tuân người nghệ sĩ tài hoa đã bằng cảm hứng lãng mạn và phép thuật ngôn từ đem lại cho ta chất vàng một quý giá của đời, làm giàu sang cho tâm và cho trí của ta dạy ta biết yêu hơn Tổ quốc, nhân dân, cuộc sống.
[ST]
Phân tích tác phẩm "Chữ người tử tù" của Nguyễn Tuân
12:39 AM |Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một nhà văn duy mĩ. Ông yêu đến say đắm cái đẹp, ngợi ca cái đẹp, tôn thờ cái đẹp. Theo ông mĩ là đỉnh cao của nhân cách con người. Ông săn lùng cái đẹp không tiếc công sức. Ông miêu tả cái đẹp bằng kho ngôn ngữ giàu có của riêng ông. Những nhân vật hiện lên trong tác phẩm của Nguyễn tuân phải là hiện thân của cái đẹp. Đó là những con người tài hoa hoạt động trong những hoàn cảnh, môi trường đặc biệt, phi thường. Ông phát hiện, miêu tả cái đẹp bên ngoài và bên trong của nhân vật. Trong cái đẹp của ông bao gồm cái chân và thiện. Ông lại còn kết hợp mĩ với dũng. Truyện ngắn "Chữ người tử tù" (1939) trong tập "Vang bóng một thời" là áng văn hay nhất, tiêu biểu nhất của Nguyễn Tuân. Giá trị tư tưởng và dụng công nghệ thuật của Nguyễn Tuân được thể hiện chủ yếu trong đoạn văn tả "một cảnh tượng xưa nay chưa từng có", cảnh tượng một người tử tù cho chữ một viên cai ngục.
Ông Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để "xin chữ" treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên "đại nghịch" cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Con người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy". Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: "ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ".
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trong những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được "thiên lương". Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi "ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng". Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cùng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
"Chữ người tử tù" không còn là "chữ" nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà "những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người". Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí "duy mĩ" của Nguyễn Tuân.
Xem tiếp…
Ông Huấn Cao trong truyện "Chữ người tử tù" là một nho sĩ tài hoa của một thời đã qua nay chỉ còn "vang bóng". Nguyễn Tuân đã dựa vào nguyên mẫu nhà thơ, nhà giáo, một lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân là Cao Bá Quát, một con người hết sức tài hoa và dũng khí phi thường để sáng tạo ra nhân vật Huấn Cao (Cao là họ, Huấn là dạy). Cao Bá Quát trước khi trở thành lãnh tụ nông dân cũng là thầy giáo. Nguyễn Tuân đã dựa vào hai tính cách của nguyên mẫu để xây dựng nhân vật Huấn Cao. Cao Bá Quát, người viết chữ đẹp nổi tiếng và khí phách lừng lẫy. Xây dựng nhân vật Huấn Cao, Nguyễn Tuân vừa thể hiện lý tưởng thẩm mĩ của ông lại vừa thỏa mãn tinh thần nổi loạn của ông đối với xã hội đen tối tàn bạo lúc bấy giờ.
Tác phẩm "Chữ người tử tù" - Nguyễn Tuân |
Truyện có hai nhân vật chính, một là ông Huấn Cao có tài viết chữ đẹp, một nữa là viên quản ngục say mê chữ đẹp của ông Huấn, quyết tìm mọi cách để "xin chữ" treo trong nhà. Lão coi chữ của Huấn Cao như báu vật.
Họ đã gặp nhau trong tình huống oái ăm là nhà ngục. Người có tài viết chữ đẹp lại là một tên "đại nghịch" cầm đầu khởi nghĩa nông dân (triều đình gọi là nổi loạn, giặc) đang bị bắt giam chờ ngày thụ hình. Con người mê chữ đẹp của ông Huấn Cao lại là một quản ngục đại diện cho cái trật tự xã hội ấy. Trên bình diện nghệ thuật họ là tri âm tri kỉ, trên bình diện xã hộ họ ở hai vị trí đối lập. Tình huống của truyện có tính kịch. Từ tình huống đầy kịch tính ấy, tính cách hai nhân vật được bộ lộ và tư tưởng chủ đề của truyện được thể hiện một cách sâu sắc.
Huấn Cao nói: "Ta nhất sinh không vì vàng ngọc hay quyền thế mà ép mình viết câu đối bao giờ". Huấn Cao coi thường tiền bạc và uy quyền, nhưng Huấn Cao vui lòng cho chữ viên quản ngục vì con người sống giữa chốn bùn nhơ này, nơi người ta chỉ biết sống bằng tàn nhẫn, bằng lừa lọc lại có kẻ biết trọng người có nghĩa khí, biết tôn quý cái đẹp của chữ nghĩa "ta cảm cái tấm lòng biệt nhỡn liên tài của các người. Nào ta có biết đâu một người như thầy quản đây mà lại có những sở thích cao quí như vậy". Viên quản ngục cũng không dễ gì nhận được chữ của Huấn Cao. Hắn đã bị nghi ngờ, bị đuổi. Có lần hắn mon men vào ngục định làm quen và biệt đãi Huấn Cao để xin chữ thì lại bị Huấn Cao cự tuyệt: "ngươi hỏi ta muốn gì? Ta chỉ muốn có một điều. Là nhà ngươi đừng đặt chân vào đây". Về sau hiểu được tấm lòng của viên quản ngục, ông đã nói một lời sâu sắc và cảm động: "thiếu chút nữa ta đã phụ một tấm lòng trong thiên hạ".
Coi khinh cường quyền và tiền bạc, Huấn Cao chỉ trong những tấm lòng biết quí cái đẹp, cái tài, có sở thích cao quý. Những con người ấy theo Huấn Cao là còn giữ được "thiên lương". Ông khuyên viên quản ngục bỏ cái nghề nhơ bẩn của mình đi "ở đây khó giữ được thiên lương cho lành vững và rồi cũng đến nhem nhuốc mất cả đời lương thiện đi".
Huấn Cao còn đẹp ở khí phách. Ông là một người tử tù gần đến ngày tử hình vẫn giữ được tư thế hiên ngang, đúng là khí phách của một anh hùng Cao Bá Quát. "Đêm hôm ấy, lúc trại giam tỉnh Sơn chỉ còn vẳng có tiếng mõ trên vọng canh, một cảnh tượng xưa nay chưa từng có đã bày ra trong một buồng tối chật hẹp, ẩm ướt, đầy mạng nhện, đất bừa bãi phân chuột, phân gián". Tác giả cố ý miêu tả bằng cách tương phản giữa tính cách cao quí của Huấn Cao với cái dơ dáy, bẩn thỉu của nhà tù, một hình ảnh thu nhỏ của xã hội thời bấy giờ.
Vẻ đẹp rực rỡ của Huấn Cao hiện lên trong đêm viết chữ cho viên quản ngục. Chính trong tình tiết này, cái mĩ và cái dũng hòa hợp. Dưới ánh đuốc đỏ rực của một bó đuốc tẩm dầu, "một người tù cổ đeo gông, chân vướng xiềng, đang dậm tô nét chữ trên tấm lụa trắng tinh căng trên mảnh ván. Người tù viết xong một chữ, viên quản ngục lại vội khúm núm cất những đồng tiền kẽm đánh dấu ô chữ trên phiến lụa óng". Hình ảnh người tử tù trở nên lồng lộng. Viên quản ngục và viên thư lại trở nên nhỏ bé, bị động, khúm núm trước người tử tù.
Vì sao Nguyễn Tuân lại nói đây là một "cảnh tượng xưa nay chưa từng có"?
Cảnh tượng này quả là lạ lùng, chưa từng có vì trò chơi chữ nghĩa thanh tao có phần đài các lại không diễn ra trong thư phòng, thư sảnh, mà lại diễn ra nơi ngục tối chật hẹp, bẩn thỉu, hôi hám.
Cảnh tượng lạ lùng chưa từng thấy là hình ảnh tên tử tù cho chữ thì nổi bật lên uy nghi lộng lẫy, còn viên quản ngục và thư lại, những kẻ đại diện cho xã hội đương thời thì lại khúm núm run rẩy.
Hình ảnh trong tác phẩm "chữ người tử tù" |
Điều đó cho thấy rằng trong nhà tù tăm tối, hiện thân cho cái ác, cái tàn bạo đó, không phải cái ác, cái xấu đang thống trị mà chính cái Đẹp, cái Dũng, cái Thiện, cái cao cả đang làm chủ. Với cảnh cho chữ này, cái nhà ngục tăm tối đã đổ sụp, bởi vì không còn kẻ phạm tội tử tù, không có quản ngục và thư lại, chỉ có người nghệ sĩ tài hoa đang sáng tạo cái đẹp trước đôi mắt ngưỡng mộ sùng kính của những kẻ liên tài, tất cả đều thấm đẫm ánh sáng thuần khiết của cái đẹp, cái đẹp của thiên lương và khí phách. Cùng với cảnh này, người tử tù đang đi vào cõi bất tử. Sáng mai ông sẽ bị tử hình, nhưng những nét chữ vuông vắn, tươi đẹp hiện lên cái hoài bão tung hoành cả một đời của ông trên lụa bạch sẽ còn đó. Và nhất là lời khuyên của ông đối với tên quản ngục có thể coi là lời di huấn của ông về đạo lí làm người trong thời đại nhiễu nhương đó. Quan niệm của Nguyễn Tuân là cái Đẹp gắn liền với cái Thiện. Người say mê cái đẹp trước hết phải là người có thiên lương. Cái Đẹp của Nguyễn Tuân còn gắn với cái Dũng. Hiện thân của cái Đẹp là hình tượng Huấn Cao với khí phách lừng lẫy đã sáng rực cả trong đêm cho chữ trong nhà tù.
Bên cạnh hình tượng Huấn Cao lồng lộng, ta còn thấy một tấm lòng trong thiên hạ. Trong đêm cho chữ, hình ảnh viên quản ngục cũng cảm động. Đó là âm thanh trong trẻo chen vào giữa một bản đàn mà nhạc luật đều hỗn loạn xô bồ. Cái tư thế khúm núm, giọng nói nghẹn ngào, cái cúi đầu xin bái lĩnh và cử chỉ run run bưng chậu mực không phải là sự quỵ lụy hèn hạ mà là thái độ chân thành khiến ta có cảm tình với con người đáng thương này.
Đoạn truyện ông Huấn Cao cho chữ là đoạn văn hay nhất trong truyện ngắn "Chữ người tử tù". Bút pháp điêu luyện, sắc sảo khi dựng người, dựng cảnh, chi tiết nào cũng gợi cảm, gây ấn tượng. Ngôn ngữ Nguyễn Tuân biến hóa, sáng tạo, có hồn, có nhịp điệu dư ba. Một không khí cổ kính trang nghiêm đầy xúc động, có phần bi tráng toát lên trong đoạn văn.
"Chữ người tử tù" không còn là "chữ" nữa, không chỉ là Mỹ mà thôi, mà "những nét chữ tươi tắn nó nói lên những hoài bão tung hoành của một đời người". Đây là sự chiến thắng của ánh sáng đối với bóng tối. Đấy là sự chiến thắng của cái đẹp, cái cao thượng, đối với sự phàm tục nhơ bẩn, cũng là sự chiến thắng của tinh thần bất khuất trước thái độ cam chịu nô lệ. Sự hòa hợp giữa Mỹ và Dũng trong hình tượng Huấn Cao là đỉnh cao nhân cách theo lí tưởng thẩm mĩ của Nguyễn Tuân, theo triết lí "duy mĩ" của Nguyễn Tuân.
Nguyên lý tảng băng trôi trong tác phẩm "Ông già và biển cả"
9:09 AM |
* * *
Hêminhuây đã sử dụng một hình ảnh nổi tiếng để nói về phương pháp viết của ông , đó là phương pháp "tảng băng trôi" : 7/8 chìm dưới nước, chỉ 1 phần nổi lên trên cho mọi người nhìn thấy. Hình ảnh ấy chẳng những minh họa cho phong cách Hêminhuây mà nó còn đưa ra một cách tóm tắt yêu cầu đối với một áng văn chương thật sự có giá trị, đặc biệt đối với độc giả của thế kỉ XX. Truyện đòi hỏi một sự đồng sáng tạo tích cực của người đọc. Mỗi người đọc theo các cấp độ khác nhau sẽ khám phá được những tảng ngầm của "tảng băng trôi" – tác phẩm văn chương. Hình ảnh này của Hêminhuây thật ra đã được một thuật ngữ lí luận gợi lên : đó là mạch ngầm văn bản.
Dưới vẻ trần trụi , thô sơ, rõ ràng bên ngoài, tác phẩm của ông ẩn giấu những tầng sâu kín, đa nghĩa và đầy chất thơ. Thoạt nhìn , ngôn từ ở đây thường rất ngắn gọn và đơn giản , điều này đặc biệt thể hiện qua 1 loại ngôn từ mà người ta coi là sở trường của ông, ngôn ngữ đối thoại. Người ta ví lối văn chương đối thoại của Hêminhuây với những băng ghi âm hoặc nói đến lối văn điện tín. Đối thoại rời rạc, khó hiểu ấy không đơn giản chỉ hứng thú của nhà văn, mà thường gắn bó với kiểu nhân vật Hêminhuây: họ không trần tình, bộc lộ tâm tư mà thường khi lại giấu kín nó. Muốn hiểu hết đối thoại của nhân vật Hêminhuây, nhiều khi phải đọc cả những im lặng và nhập hẳn vào văn cảnh của họ nữa. Huống chi nhà văn thường ẩn mình, không giải thích , bình luận nhiều về nhân vật, nên có những câu đối thoại gần như hoàn toàn thuộc về phần chìm của "tảng băng trôi"
Ông già và biển cả |
☻Phần nổi của "tảng băng trôi" trong "Ông già và biển cả"
+ Đó là những gì nhìn thấy được: Văn bản ngắn gọn, đơn giản. Qua lượng ngôn từ hạn hẹp chuyển tải những lớp nghĩa hết sức sâu xa. Nhà văn Macket nhận xét : "Những gì Hêminhuây viết trong khoảng 100 trang sách đó những nhà văn khác có thể biến thành 1 cuốn tiểu thuyết dày hàng nghìn trang".
Nhân vật số lượng cũng không nhiều, cũng là tác phẩm đơn giản về hoạt động câu cá cũng là sự giản lược về cốt truyện.
Tác phẩm có khoảng 100 trang (khoảng 27000 từ).
☻Phần chìm của "tảng băng trôi" trong "Ông già và biển cả".
Các tầng ý nghĩa khai thác được. Theo Lê Huy Bắc có 3 cách hiểu về "Ông già và biển cả":
- Đọc tác phẩm theo triết lí về cái bi đát của các nhà văn hiện sinh. Tác giả dường như muốn khẳng định cuộc đời của con người là một cuộc hành trình mệt nhọc và chẳng bao giờ tới đích nên ông lão dù có câu được con cá kiếm, chiến thắng nó cũng chẳng mang được nó vào bờ.
Khi ông lão mang bộ xương vào bờ, người thấy được giá trị của nó là cậu bé cái mà người hướng dẫn viên du lịch không hiểu được=> Cái có giá trị với người này lại trở nên vô giá với người khác. "Không phải tôi không muốn bi kịch hóa cuộc đời nhưng mỗi lần ta yên tâm về một việc gì đấy thì đó là dấu hiệu của 1 dấu hiệu của 1 sự thảm bại".
- Theo cái nhìn tiến bộ của các nhà phê bình Mácxit: "Đây là cuộc chiến của con người chống lại số phận" . Khi con người nỗ lực phấn đấu thì sẽ không bị khuất phục.
Gs. Phùng Văn Tửu nhận xét "Tác phẩm miêu tả cuộc vật lộn gay gắt của con người vs thiên nhiên đầy chân thực từ đó nâng lên thành tầng ý nghĩa thứ 2: nêu bật cái quyết liệt, tàn bạo của đời sống và khả năng chống trả của con người"
Đặng Anh Đào nhận định "Santiago giống như bức tượng về cuộc đấu tranh của con người hiện đại trên thế giới này"
Phong Lê lại đánh giá "Ông già và biển cả" ở góc độ tố cáo hiện thực xã hội, xem ông lão như 1 người lao động cực nhọc, vất vả. Con cá kiếm là thành quả lao động nhưng lại bị bọn cá mập cướp đi (bọn cá mập đồng nghĩa vs bọn tư sản bóc lột người lao động) : "Ta có thể thấy đâu đó thấp thoáng bóng dáng 1 xã hội loài người đầy rấy những bất công trong loài người với nhau. Trong xã hội ông già đang sống, đất liền kia cũng có bao nhiêu đàn cá mập hung hãn và tham lam không kém. Nó đang ngồi dưng ăn bám, cướp không bao nhiêu của cải, mồ hôi nước mắt của người dân lao động.
- Đọc tác phẩm từ góc độ mĩ học.
Theo Lê Huy Bắc: Ông lão là nhân vật đẹp (đẹp ở cả ý chí và khát vọng) => Bi kịch của cái đẹp: Sự nỗ lực đó không đem lại kết quả gì cả, con cá kiếm rõ ràng là 1 đối thủ đẹp của ông lão cuối cùng cũng bị chính ông lão tiêu diệt và trở thành chiến tích thảm thương vì không ai hiểu giá trị của nó.
Hành động đuổi theo con cá là hành động thể hiện khát vọng của con người vươn đến cái đẹp, cái lớn lao hơn mặc cho kết quả lại là 1 bi kịch. "Cái tốt đẹp chẳng bao giờ bền lâu"
- So sánh công việc câu cá với nghề viết văn ta cũng thấy được sự tương đồng giữa chúng:
Câu cá cần sức lực, viết văn cần công lao. Mục đích hướng đến 1 bên là câu được cá, kiếm được tiền còn bên kia là phấn đấu hoàn thành tác phẩm tuyệt vời. Lão đánh cá kì vọng vào 1 con cá lớn, còn nhà văn chờ đợi 1 tác phẩm hay , có giá trị. Đôi khi kết quả mang về lại là một bộ xương khô hay 1 tác phẩm không như ý muốn. Bộ xương cá cũng có người hiểu được (cậu bé Mandoli ) cũng có người không (người hướng dẫn du lịch) và công việc viết văn cũng vậy: số người hiểu được đón nhận tác phẩm đôi khi không nhiều bằng số người không hiểu, thờ ơ.
- Những yếu tố hỗ trợ cho nguyên lí "tảng băng trôi"
+ Độc thoại: Tác giả nhường lời cho nhân vật để khắc họa hình tượng nhân vật ngoài biển khơi, thủ pháp nhường lời cho nhân vật. Khi lời độc thoại lấn át lời kể có nghĩa là tác giả để nhân vật tự lên tiếng, tự bộc lộ. "Lão tự nhủ, lão nghĩ, lão cho rằng….." người kể chuyện tỏ ra lạnh lùng, khách quan, không lồng vào đó dòng suy nghĩ nào mà đánh giá, nhận xét chuyển sang phía người đọc.
Hemingway - The Old Man and the Sea |
+ " Cái đẹp thì chẳng bao giờ tồn tại được lâu"
Nghĩa đen: con cá quá lớn không thể mang lên thuyền và rồi bọn cá mập cũng xơi mất.
Nghĩa bóng : Khi ôm ấp khát vọng quá lớn thì khó có thể thực hiện được.
+ Đối thoại: Trong tác phẩm lời đối thoại rất ít.
+ Hình tượng nhân vật: 2 nhân vật chính trái ngược nhau
Ông lão: vừa là người chiến thắng, vừa là kẻ thua cuộc.
Cậu bé Mandoli: gắn với quá khứ đẹp đẽ của ông lão, gợi nhớ về thời trai trẻ của ông lão mạnh mẽ, sôi nối => là sự tiếp nối của ông lão .
+ Tính biểu tượng:
Ông lão Santiago: ( Sant – ông thánh -> gợi liên tưởng đến chúa Giesu :tay chân trầy xước, rướm máu, lúc thuyền lên bờ ông lão tháo cột buồm nặng nhọc vác trên vai giống biểu tượng chúa trên thánh giá): Ông lão là biểu tượng của con người phi thường chống lại định mệnh.
- Con cá kiếm : tượng trưng cho những khó khăn , thử thách của con người, của tự nhiên; Nó là thành quả lao động của con người, là khát vọng lí tưởng của con người, đồng thời là biểu tượng của cái đẹp.
- Đàn cá mập: tượng trưng cho những khó khăn, thử thách ngáng trở con đường vươn đến lí tưởng của con người. Nó là biểu tượng của cái xấu, cái tồi tệ, cái đáng lên án. Bọn tư sản chỉ biết cướp bóc không thành quả lao động của người lao động nghèo.
- Biển: Một môi trường đầy khó khăn, thử thách. Biển là mẹ thiên nhiên kì vĩ, chứa đựng những khát vọng lớn lao của con người
* * *
Phân tích: Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi
9:00 AM |
* * *
Nhà văn Nguyễn Thi tên thật là Nguyễn Ca , người Nam Hà . Ông vào Nam từ năm 1945 , gia nhập quân đội và viết văn dưới bút danh Nguyễn Ngọc Tấn . Tập kết ra Bắc năm 1954 , năm 1962 ông trở lại miền Nam lần thứ hai , viết văn dưới bút danh Nguyễn Thi . Ông thuộc lớp nhà văn cầm súng , ông hi sinh trong vị trí , tư thế chiến đấu giữa mùa xuân tiến công và nổi dậy năm 1968 trong trận đánh vào Sài Gòn . Là nhà văn chiến sĩ , Nguyễn Thi có nhiều đóng góp cho nền văn học cách mạng . Một trong những đóng góp đáng kể của ông về nghệ thuật là sự thể hiện thành công ở truyện "Những đứa con trong gia đình" . Truyện viết năm 1966 , lúc Bến Tre đã đồng khởi , nhân dân miền Nam đã cầm vũ khí đánh lại Mỹ-Nhật giải phóng quê hương . Trong tác phẩm , Chiến và Việt lớn lên trong cảnh tan tóc của gia đình và trong cuộc đồng khởi vĩ đại của quê nhà .
Tác giả Nguyễn Thi đã sử dụng nghệ thuật đồng hiện trong tác phẩm này , đây là một thủ pháp khá quen thuộc về kết cấu tác phẩm , một yếu tố thuộc về hình thức . Như ta đã biết , kết cấu là việc tổ chức , sắp xếp các yếu tố nội dung trong văn bản tác phẩm để nó đạt hiệu quả nghệ thuật cao nhất . Thủ pháp đồng hiện góp vai trò quan trọng trong công việc này . Nó là một trong những thủ pháp tạo ra được lối kết cấu độc đáo . Từ đó , cốt truyện nhân vật , chủ đề được thể hiện , gây hiệu quả nghệ thuật sâu sắc . Dựa vào suy nghĩ của mình , tác giả thể hiện các sự kiện trong một thời điểm , các nhân vật trong cả hai mảng thời gian hiện tại và quá khứ đan xen nhau rất có hiệu quả .
Tác phẩm: Những đứa con trong gia đình - Nguyễn Thi |
Sau một cuộc giao tranh quyết liệt giũa đơn vị của Việt và một chiến đoàn Mĩ , Việt lạc đơn vị giữa rừng đầy xác giặc , chân tay tê dại nhức nhối , khắp người rỉ máu , miệng tê cứng không la lên được , sau đó ngất đi . Nhưng Việt vẫn cố bò đi và sẵn sàng chiến đấu bằng khẩu súng của mình.Mười ngón tay không lên đạn được.Việt dùng răng giật cơ bẩm, đưa một viên đạn lên nòng .Chi tiết này nói lên ý chí diệt giặc của Việt rất mạnh mẽ.Trong tâm trạng thì luôn nhớ tới chị (cùng di bắt ếch và giành phần nhiều),tới chú Năm ( thường bênh mình và ghi sổ gia đình –đó là cuốn nhật kí,một cuốn sử nhà đặc biệt,ghi chép những tội ác của kẻ thù,nỗi đau và thành tích của từng người trong gia đình). Sang tới ngày thứ hai,Việt bắt đầu cảm thấy nóng và đói ,mắt bị thương nặng, đau khắp người . Đến đây hoàn cảnh của Việt càng gay go.Người chiến sĩ trẻ,người thương binh đang lạc đồng đội này phát hiện mình không thấy gì . Đường tìm về với đồng đội càng khó khăn gấp bội . Dù vậy ,anh vẫn sẵn sàng nổ súng với một ngón cái hơi nhúc nhích do chín ngón còn lại đã bị thương .Tâm trí thì nhớ về ngày tòng quân ,nhớ ngày theo má đi đòi đầu ba,nhớ má tần tảo lo nuôi các con và dò bọn lính ,nhớ tới cái chết tức tưởi của má .Trong hoàn cảnh hiểm nghèo , Việt không sợ chết mà (chỉ sợ không còn gặp được đồng đội,không còn được cầm súng)mà hướng về ba má,nhớ đến cái chết đau thương của ba má .Khi về đêm thì Việt cảm thấy kiệt sức hoàn toàn,cảm thấy không còn bò được nữa,cảm giác sờ sợ cái vắng lặng ,lạnh lẽo của đêm tối.Lúc này tâm trạng Việt luôn hướng về đồng đội , điều đó rất hợp lí vì Việt đã nghe thấy tiếng súng,tiếng kèn xung phong của ta và đang cảm thấy cuộc chiến đấu bùng ra .Do đó,Việt lại bò được một đoạn ,bò về phía trận đánh,phía đồng đội,phía sự sống .
Nhưng trận đánh ở xa Việt ,cho nên tâm trí Việt lắng lại ,hồi tưởng ngày giành đi bộ đội với chị Chiến và cảnh hai chị em bàn định việc nhà trước khi lên đường gia nhập ngũ.Cảm động nhất là khi hai chị em bàn và gửi bàn thờ má: đối với hai chị em dường đó là việc hệ trọng nhất .Nghĩ gì thì cuối cùng cũng vẫn đọng lại suy nghĩ về má.Hai chị em lo cúng má trước khi dời bàn thờ (càng cảm động hôn khi hai người lo làm cơm cúng má trong tiếng hò như vỡ ra ,nhắn nhủ,tha thiết rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội của chú Năm).Và đối với hai chị em,dường như má vẫn còn sống(thoạt đầu Việt tin má đã về ngồi đâu đó thật,cuối cùng lúc khiêng bàn thờ,tác giả đã nương theo ý nghĩ của nhân vật, để hai chị em đóng vai trò kể chuyện -trước đó trác giả đứng ra kể chuyện-mà dùng các từ ngữ "đưa má sang ở tạm nhà chú","khiêng má"- chứ không phải khiêng bàn thờ-rồi đến cái ngày độc lập lại "đưa má về".Cũng qua cảm nghĩ của hai chị em và của riêng Việt ở đoạn này (chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má …Việt thấy thương cho chị.Còn mối thù thằng Mỹ nó đang đè nặng trên vai…)ta thấy hai nhân vật trẻ này nhập ngũ không phải vì ý thích nông nổi mà do chiều sâu nhận thức:di đánh giặc vì căm thù và yêu thương sâu nặng .Việt đã nhìn lại quá khứ bằng con mắt của ý chí ,của tâm tưởng.Qua đó nhân vật bộc lộ nghị lực, ý chí,tinh thần chiến đấu cao và tình yêu thương đậm đà,hồn nhiên.Tuy Việt hay tranh giành với chị nhưng biết nghe lời chị(lúc hai chị em bàn việc nhà),thương chị.Nhân vật này cũng thể hiện nét hồn nhiên trẻ trung,thậm chí còn tính trẻ con (chi tiết cái ná thun theo Việt đi chiến đấu,không muốn mất chị…).Chính tình chị em,chú cháu,má con, đồng đội đã tiếp sức cho Việt vượt qua thử thách khắc nghiệt .
Sang tới ngày thứ ba ,Việt được tìm thấy và đưa về quân viện.Anh có thời gian trị vết thương, đồng thời cũng có cả thời gian để mà ôn lại,nhớ lại. Ở quân y viện "hai con mắt băng kín mít" dấu tích của người lính dũng cảm.Việt "với cây bút chì…mò mò viết thư".Anh không dám nhờ người khác viết thư cho chị.Anh sợ cái tiếng "cậu Tư".Sợ mất chị Ba quyết chiến.Anh "giấu chị như giấu của riêng vậy".Thật là ngây thơ.Cái ngây thơ đáng yêu của một người lính trẻ ,dũng cảm thật đấy,mà cũng khờ khạo trước cuộc đời.Ngay cả chuyện đùa vui của anh em theo tếu táo của lính anh cũng tưởng là chuyện thật.
Trên chiến trường ngổn nang xác giặc,Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần dù đã kiệt sức,người lính trẻ ấy vẫn sẵn sàng chiến đấu tiếp nếu kẻ thù xuất hiện.Thế ma2khi nghe "ếch nhái kêu dậy lên",Việt bỗng trở thành chú bé con có "hai cái đèn soi,lóp ngóp đi"cùng chị ."Chiến và Việt ai cũng giành phần nhiều là của mình",phải nhờ chú Năm "đứng ra phân xử".Ngay cả lúc nhập ngũ,hai chị em cũng không ai chịu nhường ai đi trước ,chú Năm phải đứng ra "xin trên cứ ghi tên cho cả hai"
Qua một vài điều nói trên ,ta thấy thủ pháp nghệ thuật đồng hiện trong khắc hoạ nhân vật Việt,chủ yếu dựa trên cơ sở của phép liên tưởng ,phép bắc cầu từ sự kiện này sang sự kiện khác,từ chi tiết,nhân vật này sang chi tiết nhân vật kia…Trong sự liên kết đó,dòng hồi tưởng của nhân vật vẫn là sợi dây nối quan trọng nhất.Từ chi tiết anh em trong quân y viện họi anh là cậu Tư , Việt chợt nhớ tới chị Chiến,nhớ tới tiểu đội trưởng Tánh .Anh muốn viết thư cho chị nhưng khó có thể viết được vì hai mắt còn bị băng kín.Thế là Việt nhớ lại lần chị bị trúng bom,nhớ lại trận đánh của chính mình…Việt nhớ lại trong trận đánh,anh đã ngất đi,tỉnh lại ,bỗng nghe thấy tiếng ếch và cùng lúc đó,tuổi thơ,những ngày xa xưa uất hận cùng ùa về trong trí nhớ…Các tình tiết truyện diễn ra rất tự nhiên.Thủ pháp nghệ thuật này ta đã gặp ở truyện "Đôi mắt"của Nam Cao . Ở đó,câu chuyện cũng diễn ra trong hồi tưởng của nhân vật Hộ.Khác chăng là Nam Cao để Hộ xưng "Tôi" và tự kể.Còn ở đây,Nguyễn Thi trực tiếp miêu tả tâm trạng Việt . ông vừa miêu tả diễn biến tâm trạng nhân vật vừa mượn tâm trạng ấy nói lên câu cuyện mình muốn kể . Đây cũng là một lối kể chuyện độc đáo.
Vẫn bằng cách trên,theo lời độc thoại của nhân vật Việt,tác giả lần lượt giớ thiệu và đồng hiện các nhân vật Chiến,chú Nam,ba má Việt,Tánh…Cũng như Việt,Chiến tòng quân ra chiến đấu trong một tiểu đội bộ đội nữ địa phương .Chị đã chiến đấu dũng cảm,coi cái chết cũng chỉ như "chết giấc", "như ta ngủ vậy’.Chiến chỉ khác ở Việt ở chỗ là người chị cả trong gia đình nên sớm trưởng thành ,biết lo toan,tính toán già dặn hơn lứa tuổi 20 :cô gái 20 xuân này đóng vai trò một người chị với lòng yêu thương ,nhường nhịn ;một người má với nỗi lo tính khôn ngoan mọi mặt ;một người chiến sĩ với tâm hôn khát khao chiến đấu,trả thù.Có tinh thần quyết chiến cao như tên của cô "Quyết Chiến".Câu nói điển hình của cô với em : "Nếu giặc còn thì tao mất" –và cô đã trở thành tiểu đội trưởng quân địa phương.Chiến có nhiều nét giống mẹ cô (từ tính tình đến lời nói),giống như những người thời chiến phải đương đầu với hoàn cảnh thương đau quyết liệt .Chiến mang hình ảnh của má trong mình nhưng lại khác hơn vì cô đã vươn lên được mạnh mẽ với khẩu súng trong tay.
Chú Năm cũng chỉ là một nhân vật thoáng qua trong dòng tâm tưởng,gợi lên từ một tiếng ếch trên chiến trận đã im tiếng súng …Mỗi lần Việt và Chiến soi ếch về ,chú đều "kiếm con trọng trọng đem về nhậu".Có hai đoạn văn đẹp như thơ tả đoạn chú Năm "nhậu vào ba hột là chú nói tới"hay "hò lên mấy câu".Câu hò khiến chú xúc động "đôi mắt mở to, đọng nước". Đoạn văn khi kể về cuốn sổ gia đình chú ghi,hầu để câu này "giao…chị em cất".Cuốn sổ lần về quá khứ,lẫn trong hiện tại ,không theo năm tháng. Đó là chứng tích lịch sử được khơi dậy lại ,chép lại bởi cái nhìn đa cảm ,cái yêu,cái ghét của một tư cách Nam Bộ trọng nghĩa ,bộc trực sôi nổi,yêu đời.
Ba má Việt hiện về trong Việt như những kỷ niệm về lòng yêu thương và căm thù .Tình yêu của ba má,con đường của ba và tội ác của giặc khiến chị em Việt không thể lên đường cứu nước.Những đoạn văn này Nguyễn Thi như đồng cảm với nhân vật và viết lên bằng nước mắt . Đọc thấy xúc động cùng nhân vật, đau nỗi đau cùng nhân vật .
Chính nghệ thuật đồng hiện làm cho câu chuyện thảm khốc và hào hùng , đậm đà tính người …tưởng như chập chờn , đứt nối rời rạc…liền lại trong mạch nguồn tâm tưởng khá chặt chẽ .Chặt chẽ nhưng vẫn giữ được cái vẻ bề bộn của tầng tầng lớp lớp chi tiết trong cuộc sống thường và trong chiến trạn hồi chiến tranh .Các mảng sự kiện ,những đoạn đời trong quá khứ và hiện tại như được cố tình đan chéo vào nhau,bổ sung cho nhau một cách hợp lý,làm cho tính cách nhân vật được khắc hoạ rõ nét và chủ đề truyện được bọc lộ khá nổi bật.Lối kết cấu đặc biệt này buộc tác giả phải đi đến tận cùng trong việc phân tích và diễn đạt diễn biến phức tạp nhưng tinh tế của tâm lý nhân vật.Nó cũng đòi hỏi nhà văn phải nhập thân như người trong cuộc ,am hiểu và đồng cảm với nhân vật.Tất cả các điều này,Nguyễn Thi đều vượt qua và thể hiện rất thành công .
Truyện tái hiện hiện thực nóng bỏng của vùng quê rất đỗi thân thương với những người con chân chất hồn nhiên mang quyết tâm cao độ cầm súng trả thù nhà nợ nước,giành lại cuộc sống.Qua các nhân vật ta thấy sức mạnh truyền thống đấu tranh của gia đình ,quê hương,xứ xở. Đồng thời mỗi người lại góp một "khúc sông"xứng đáng vào con sông gia đình kiên cường,tất cả đổ vào ,tạo ra biển cả truyền thống dân tộc.
***************
Ban có thể phân tích theo nhiều ý nhưng xin cung cấp một số ý chính như sau:
* Nhân vật chị Chiến
- có vóc dang người lao động:2hai bắp tay tròn vo xạm màu đỏ cháy nắng...
- so sánh Chiến và mẹ:
+giống mẹ (3 lần Việt thấy Chị CHiến giống mẹ), giống ở điệu bộ, cử chỉ, lời nói cách lo liệu công việc, chính Chị cũng cảm giác hòa vào với mẹ(thì tao cũng liệu ý má lúc còn sông chắc....)
+khác lúc nào cũng có chiếc gương nhỏ trong túi,ngậm một ít tóc trông nữ tính, quan trọng nhất là có cơ hội cầm súng(sự phát triển thời đại)
- phần nhiều giống chị Út Tịch với câu nói nổi tiếng"đánh giặc sương như tiên chứ cực gì", "còn cái cũng đánh", (những hình tượng trong văn Nguyễn Thi), chị Chiến ra trận với tinh thần"giặc còn thì tao mất"
* Nhân vật Việt:
- tính cách trẻ con, thích dành phần hơn(chiến tích sông Định Thủy, dành đi lính), thu hút người đọc,nhất là độc giả trẻ ở vẻ lộc ngộc, vô tư, trong khi chị Chiến bàn bạc việc nhà thì 'lăn ra cười khì", lúg lại "chụp một con đom đóm", đi lính vẫn mang theo súng cao su, dấu thư chị sợ các anh trong trung đoàn biết sẽ mất chị, bị thương ko sợ chết mà sợ ma"
- là người anh hùng thực thụ, (chiến đấu ngoan cường, khi bị thương giữa sự sống và cái chết ko hề sợ hãi, tê liệt vẫn có tinh thần chiến đấu"trên trời có mày, dưới đất có tao,...")
- Việt coi việc đánh giặc như thú bắt ếch, bắn chim, liên tưởng tơi những nhân vật trong "khi mẹ vắng nhà"may bay địch ném bom chị quấy bột ko run tay thằng em đòi ra khỏi hầm, người Việt Nam kiên cường trước chiến tranh bom đạn kẻ thù, ko run sợ trước kẻ thù, điều này lí giải 1 phần tại sao người VN thắng Pháp Mỹ
* Kết luận 2 chị em Việt Chiến
- là nhữn người anh hùng, thế hệ tiếp nối cha ông đánh giặc và truyền thống vẻ vang của gia đình, nếu cha mẹ luôn ở thê bị động thì Chiến Việt ở thế chủ động luôn đi tìm giặc để đánh, phát triển chủ nghĩa anh hùng cách mạng,đồng thời phải thấy được họ là sản phẩm của gia đình, từ đây thấy được giá trị bền lâu của tác phẩm:giá trị gia đình đặc biệt trong đời sống hiện nay(mở rộng về giá trị tág phẩm)
-để lại dấu ấn đậm sâu về nhân vật và nhà van về đối tượng văn học và ngòi bút phân tích tâm lí nhân vật.....
Hi vọng tôi đã làm được điều có ích cho các bạn, nếu có sai sót mong thông cảm và liên hệ lại
* * *
Nghị luận xã hội: Vấn đề bạo lực học đường
8:55 AM |
Hiện nay, trên các phương tiện thông tin đại chúng đã và đang đưa tin rất nhiều về tình trạng bạo lực học đường. Sự thực thì vấn nạn này đang có xu hướng gia tăng và phát triển hết sức phức tạp. Chúng ta hãy tìm hiểu thêm về vấn đề nóng bỏng này thông qua đề nghị luận xã hội sau. Mong rằng mỗi chúng ta hãy tự trang bị cho mình những nhận thức đúng đắn, sâu sắc về vấn đề này. Dưới đây chỉ là dàn bài sơ lược, mong rằng sẽ nhận được sự bổ sung đóng góp từ các bạn.
Suy nghĩ của anh (chị) về vấn nạn bạo lực học đường.
Đạo đức? |
* Đặt vấn đề: Trước đây, chúng ta thường có tâm lý chủ quan nghĩ rằng bạo lực học đường là một vấn đề hết sức xa xôi, không xảy ra phổ biến. Đồng thời cũng vì thế mà không ý thức được sâu sắc về tầm ảnh hưởng, tác động, hậu quả nghiêm trọng của nó tới thế hệ trẻ nói riêng, con người nói chung. Song thời gian gần đây, bạo lực học đường đã có những chiều hướng gia tăng, phát triển phức tạp và trở thành một vấn đề nóng bỏng, một vấn nạn nhức nhối khiến mọi người không khỏi bàng hoàng, kinh ngạc. Phải chăng đó chính là một dự báo "sóng ngầm đang thành bão". Đứng trước thực trạng đó mỗi chúng ta cần có nhận thức và hành động như thế nào?
1. Giải thích.
- Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, ngang ngược, bất chấp công lý, đạo lý, xúc phạm trấn áp người khác gây nên những tổn thương về tinh thần và thể xác diễn ra trong phạm vi trường học.
- Bạo lực học đường hiện nay có xu hướng gia tăng nhanh chóng, diễn ra ở nhiều nơi do đó đang trở thành một vấn nạn của xã hội.
2. Hiện trạng.
a. Biểu hiện của hành động bạo lực học đường có thể xảy ra dưới nhiều hinh thức như:
+ Xúc phạm, lăng mạ, xỉ nhục, đay nghiến, chà đạp nhân phẩm, làm tổn thương về mặt tinh thần con người thông qua lời nói.
+ Đánh đập, tra tấn, hành hạ, làm tổn hại về sức khỏe, xâm phạm cơ thể con người thông qua những hành vi bạo lực.
b. Chứng minh:
- Chỉ cần một thao tác rất nhanh trên google ta có thể tìm thấy hàng loạt các clip bạo lực của nữ sinh: Ở Phú Thọ, nữ sinh đánh bạn bằng giày cao gót; ở Hà Nội; Ở TPHCM, Nghệ An…
- Học sinh có thái độ không đúng mực vs thầy cô giáo, dùng dao đâm chết bạn bè, thầy cô…
- Lập nên các nhóm hội hoạt động đánh nhau có tổ chức.
- Giáo viên đánh đập, xúc phạm tới nhân phẩm của học sinh…
Bạo lực học đường |
3. Nguyên nhân
- xảy ra vì những lí do trực tiếp rất không đâu: Nhìn đểu, nói móc, tranh giành người yêu, không cùng đẳng cấp...
- Sự phát triển thiếu toàn diện, thiếu hụt về nhân cách, thiếu khả năng kiểm soát hành vi ứng xử của bản thân, non nớt trong kĩ năng sống, sai lệch trong quan điểm sống.
- do ảnh hưởng từ môi trường văn hóa bạo lực: phim, ảnh, sách, báo, đồ chơi mang tính bạo lực (kiếm, súng...)
- sự giáo dục chưa đúng đắn, thiếu quan tâm của gia đình; tình trạng bạo lực trong gia đình cũng là một phần nhân tố ảnh hưởng không tốt. Và một khi bạo lực gia đình vẫn còn tồn tại thì bạo lực học đường sẽ vẫn còn có nguy cơ gia tăng. (Ở đây để vấn đề thêm sâu sắc có thể liên hệ với hình ảnh cậu bé Phác trong "chiếc thuyền ngoài xa" – Nguyễn Minh Châu để vấn đề thêm sâu sắc.)
- Sự giáo dục trong nhà trường: nặng về dạy kiến thức văn hóa, đôi khi lãng quên nhiệm vụ giáo dục con người "tiên học lễ hậu học văn".
- Xã hội thờ ơ, dửng dưng, buông xuôi, chưa có sự quan tâm đúng mức, những giải pháp thiết thực, đồng bộ, triệt để.
4. Hậu quả
- Với nạn nhân:
• Tổn thương về thể xác và tinh thần
• Tổn hại đến gia đình, người thân, bạn bè người bị hại
• Tạo tính bất ổn trong xã hội: tâm lí lo lắng bất an bao trùm từ gia đình, nhà trường, đến xã hội.
- Người gây ra bạo lực:
• Con người phát triển không toàn diện: phát triển ngược trở lại phía "con", đi ngược lại tính " người" mất dần nhân tính.
• Mầm mống của tội ác mất hết tính người sau này.
• Làm hỏng tương lại chính mình, gây nguy hại cho xã hội.
• Bị mọi người lên án, xa lánh, căm ghét.
5. Giải pháp.
- Đối với những người gây ra bạo lực học đường: cố gắng mở rộng nâng cao nhận thức:
• Giữ cho trái tim luôn ấm nóng tình yêu thương.
• Địa ngục do ta mà có, thiên đường cũng do chính ta tạo nên ý thức rõ ràng về hành động và hậu quả hành động do bản thân thực hiện
• Nơi lạnh nhất ko phải là bắc cực mà là nơi không có tình thương Nhận thức rõ vai trò sức mạnh của tình người.
- Xã hội cần có những giải pháp đồng bộ, chặt chẽ giáo dục con người trong gia đình, nhà trường, trong toàn xã hội; coi trọng dạy kĩ năng sống, vươn tới những điều chân thiện mỹ.
- Có thái độ quyết liệt phê phán răn đe, giáo dục cải tạo, biện pháp trừng phạt kiên quyết làm gương cho người khác.
Bị thành phần bên ngoài gây ảnh hưởng |
6. Mở rộng: (phản đề)
- "Không nên mất niềm tin vào con người. Nhân loại là cả một đại dương. Nếu một vài giọt nước trong đại dương ấy dơ bẩn thì cả đại dương cũng không vì thế mà trở thành dơ bẩn được." (Mahatma Gandhi).
-->Hiện tượng trên chỉ là một phần rất nhỏ của xã hội nên không phải vì thế mà chúng ta mất đi niềm tin vào con người vào thế hệ trẻ. Cần nhân rộng những tấm lòng cao cả, nêu gương người tốt việc tốt điển hình --> Hình thành thái độ đồng cảm, sẻ chia, yêu thương giúp con người nói chung, thế hệ trẻ nói riêng tiến tới những vẻ đẹp nhân cách Chân thiện mĩ, phát huy những truyền thống nhân ái, nhân đạo từ ngàn xưa trước khi chúng ta phải đối phó với căn bệnh vô cảm
7. Đưa ra bài học cho bản thân: Có quan điểm nhận thức, hành động đúng đắn, hình thành những quan niệm sống tốt đẹp...
Bài 6. Đột biến số lượng nhiễm sắc thể
11:37 PM |
* * *
I. Đột biến lệch bội
1. Khái niệm và phân loại
a)Khái niệm:
Làm thay đổi số lượng NST trong 1 hay 1 số cặp tương đồng.
b)Phân loại:
-Thể một: 1 cặp NST mất 1 NST và bộ NST có dạng 2n - 1.
-Thể không: 1 cặp NST mất 2 NST và bộ NST có dạng 2n - 2.
-Thể ba: 1 cặp NST thêm 1 NST và bộ NST có dạng 2n + 1.
-Thể bốn: 1 cặp NST thêm 2 NST và bộ NST có dạng 2n + 2.
2. Cơ chế phát sinh
a) Trong giảm phân
- Do sự phân ly NST không bình thường ở 1 hay 1 số cặp kết quả tạo ra các giao tử thiếu, thừa NST (n -1; n + 1 giao tử lệch nhiễm).
- Các giao tử này kết hợp với giao tử bình thường -> thể lệch bội.
b) Trong nguyên phân
- Trong nguyên phân một số cặp NST phân ly không bình thường hình thành tế bào lệch bội.
-Tế bào lệch bội tiếp tục nguyên phân -> 1 phần cơ thể có các tế bào bị lệch bội -> thể khảm.
3. Hậu quả:
Đột biến lệch bội tuỳ theo từng loài mà gây ra các hậu quả khác nhau như: tử vong, giảm sức sống, giảm khả năng sinh sản…
4. Ý nghĩa
Đột biến lệch bội cung cấp nguyên liệu cho tiến hoá và trong chọn giống.
II. Đột biến đa bội
1. Khái niệm và cơ chế phát sinh thể tự đa bội
a) Khái niệm:
Là dạng đột biến làm tăng 1 số nguyên lần bộ NST đơn bội của loài và lớn hơn 2n ( 3n, 4n, 5n, 6n... ).
b) Cơ chế phát sinh
- Dạng 3n là do sự kết hợp giữa giao tử n với giao tử 2n (giao tử lưỡng bội).
- Dạng 4n là do sự kết hợp giữa 2 giao tử 2n hoặc trong lần nguyên phân đầu tiên của hợp tử tất cả các cặp NST không phân ly.
Cơ chế phát sinh các dạng đa bội |
2. Khái niệm và cơ chế phát sinh thể dị đa bội.
a) Khái niệm:
Sự tăng số bộ NST đơn bội của 2 loài khác nhau trong 1 tế bào.
b) Cơ chế hình thành:
- Do hiện tượng lai xa và đa bội hoá.
3. Hậu quả và vai trò của đột biến đa bội
- Tế bào đa bội thường có số lượng ADN tăng gấp bội -> tế bào to, cơ quan sinh dưỡng lớn, sinh trưởng phát triển mạnh khả năng chống chịu tốt...
- Đột biến đa bội đóng vai trò quan trọng trong tiến hoá (hình thành loài mới) và trong trồng trọt ( tạo cây trồng năng suất cao... )
* Kiến thức bổ sung:
- Các thể lệch bội cũng tương tự như các thể đa bội lẻ thường mất khả năng sinh sản hữu tính do khó khăn trong quá trình giảm phân tạo giao tử và nếu giảm phân được sinh ra có các giao tử không bình thường.
- Nếu xét 1 lôcut gen trên cặp NST nào đó thể đột biến lệch bội dạng ba và đột biến đa bội dạng 3n đều có kiểu gen tương tự như nhau ví dụ Aaa khi giảm phân sẽ sinh ra các loại giao tử như sau:
- Giao tử bình thường A, a.
- Giao tử không bình thường Aa, aa.
- Các thể đa bội thường gặp ở thực vật còn ở động vật đặc biệt là động vật bậc cao thì hiếm gặp là do khi các cơ thể động vật bị đa thường dẫn đến làm giảm sức sống, gây rối loạn giới tính, mất khả năng sinh sản hữu tính và thường tử vong.
Một số đặc điểm phân biệt thể lệch bội và thể đa bội |
Bài 5. Nhiễm sắc thể và đột biến cấu trúc nhiễm sắc thể
11:26 PM |
* * *
I. Cấu trúc siêu hiển vi của nhiễm sắc thể
Thành phần: ADN + Protein Histon
- Nuclêôxôm: Một đoạn ADN (khoảng 146 cặp Nu) quấn quanh 8 phân tử histôn.
- Chuỗi nuclêôxôm (mức xoắn 1) tạo sợi cơ bản có đường kính » 11nm.
- Sợi cơ bản xoắn (mức 2) tạo sợi chất nhiễm sắc có đường kính» 30nm.
- Sợi chất nhiễm sắc xoắn mức 3® có đường kính » 300 nm và hình thành Crômatit có đường kính » 700 nm.
II. Đột biến cấu trúc nhiễm sắc thể.
1. Mất đoạn
- NST bị đứt mất 1 đoạn làm giảm số lượng gen trên NST ® thường gây chết.
- Ở thực vật khi mất đoạn nhỏ NST ít ảnh hưởng ® loại khỏi NST những gen không mong muốn ở 1 số giống cây trồng.
2. Lặp đoạn
- Một đoạn NST được lặp lại một hay nhiều lần ® làm tăng số lượng gen trên NST.
- Làm tăng hoặc giảm cường độ biểu hiện của tính trạng (có lợi hoặc có hại).
3. Đảo đoạn:
- Một đoạn NST bị đứt ra rồi đảo ngược 1800 và nối lại ®l àm thay đổi trình tự gen trên NST ® làm ảnh hưởng đến hoạt động của gen.
4. Chuyển đoạn:
- Sự trao đổi đoạn NST xảy ra giữa 2 NST không cùng cặp tương đồng ® làm thay đổi kích thước, cấu trúc gen, nhóm gen liên kết ® thường bị giảm khả năng sinh sản.
Đột biến nhiễm cấu trúc nhiễm sắc thể |
Bài 3. Điều hòa hoạt động của GEN
11:01 PM |
* * *
1. Khái niệm:
Điều hoà hoạt động của gen là điều hoà lượng sản phẩm của gen được tạo trong tế bào đảm bảo cho hoạt động sống của tế bào phù hợp với điều kiện môi trường cũng như sự phát triển bình thường của cơ thể.
Điều hòa hoạt động gen có thể ở mức độ phiên mã, dịch mã, sau phiên mã.
- Ở sinh vật nhân sơ điều hoà hoạt động gen chủ yếu ở mức độ phiên mã.
2. Cấu trúc của opêron Lac ở E. coli.
Opêron là các gen cấu trúc liên quan về chức năng được phân bố liền nhau và có chung cơ chế điều hòa hoạt động.
Cấu trúc Ôperon Lac:
Z,Y,A: Là các gen cấu trúc mã hóa cho các enzim phân giải Lactozo.
O: Vùng vận hành là trình tự nu đặc biệt để protein ức chế liên kết ngăn cản phiên mã.
P: Vùng khởi động có trình tự nu để ARN polimeraza liên kết và khởi động quá trình phiên mã.
Gen điều hòa không nằm trong Operon nhưng có vai trò điều hòa hoạt động Operon.
3. Cơ chế điều hoà Hoạt động của ôpêron Lac:
Khi môi trường không có lactôzơ: gen điều hoà tổng hợp prôtêin ức chế. Prôtêin ức chế gắn vào vùng vận hành (O) ® các gen cấu trúc không phiên mã.
Khi môi trường có lactôzơ: Lactôzơ là chất cảm ứng gắn với prôtêin ức chế ® prôtêin ức chế bị biến đổi không gắn được vào vùng vận hành. ARN polimeraza liên kết với vùng khởi động tiến hành phiên mã ® mARN của Z, Y, A được tổng hơp và dịch mã tạo các enzim phân hủy Lactozo. Khi Lactozo cạn kiệt thì protein ức chế lại liên kết với vùng (O) quá trình phiên mã dừng lại.
Phân tích bài thơ "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương
12:31 AM |
* * *
Sinh thời, Bác Hồ luôn luôn nghĩ đến miền Nam, ngày đêm thương nhớ miền Nam. Với Bác, miền Nam là niềm vui, là hạnh phúc, là nỗi đau không lúc nào nguôi: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Niềm mong mỏi thiết tha của Bác là miền Nam mau được giải phóng. Miền Nam cũng ngày đêm thương nhớ Bác, mong ngày giải phóng để được gặp Bác kính yêu. Nhưng tiếc thay, khi Bắc Nam sum họp một nhà thì Bác không còn nữa. Lòng thương nhớ, nỗi niềm đau đớn của đồng bào và chiến sĩ miền Nam dồn nén bao nhiêu năm đã được nhà thơ Viễn Phương thể hiện trong bài Viếng lăng Bác. Bài thơ không những chỉ thể hiện dòng cảm xúc trào dâng của nhà thơ mà còn thể hiện hình tượng lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những hình ảnh vừa quen thuộc, vừa giàu sức khái quát, vừa lung linh gợi cảm. Bằng cảm xúc chân thực và ngôn ngữ thơ gợi cảm, Viễn Phương đã nói hộ chúng ta một chân lý: Bác Hồ vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân ta.
Nhà thơ Viễn Phương |
Bài thơ ra đời năm 1976, khi lần đầu tiên sau giải phóng miền Nam, Viễn phương ra thăm Lăng Bác. Bài thơ rất ngắn gọn, súc tích nhưng có sức gợi tạo nên sự xúc động cho người đọc. Ngôn ngữ thơ tuôn trào theo theo dòng cảm xúc chân thành, tha thiết.
Mở đầu bài thơ, Viễn Phương đã bày tỏ ngay tình cảm sâu nặng, ruột thịt của mình bằng câu thơ giản dị: Con ở miềm Nam ra thăm lăng Bác.
Tình cảm giữa miền Nam và Bác Hồ luôn luôn là tình cảm ruột thịt “Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà” (Tố Hữu) và tình cảm của miền Nam đối với Bác cũng là tình cảm nhớ mong da diết “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” (Tố Hữu). Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương nói với Bác: Con ở miền Nam…. Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, Miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác.
Hình ảnh đầu tiên trong lăng làm nhà thơ xúc động là hình ảnh hàng tre:
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng
Hàng tre bát ngát cuốn hút cảm xúc của nhà thơ. Qua hình ảnh hàng tre quen thuộc tác giả gửi gắm một ý nghĩa tượng trưng nhằm ca ngợi Bác, ca ngợi dân tộc. Chắc rằng, cũng như mọi người Việt Nam, trong tâm khảm nhà thơ, cây tre là hình ảnh giản dị, thân thuộc, đời đời gắn bó với quê hương làng xóm. Hàng tre xanh xanh trong vườn Bác gợi cho người đọc nhiều liên tưởng. Hàng tre gợi hình ảnh mọi miền quê hương đất nước, nhất là hình ảnh miền Nam yêu thương. Tre kiên cường trong bão táp mưa sa như dân tộc ta vững vàng qua phong ba bão tố, như Bác Hồ suốt đời sống giản dị nhưng kiên cường tranh đấu vì độc lập tự do của dân tộc.
Hoà vào dòng người thăm lăng, nhà thơ tiếp tục dòng suy tưởng. Lời thơ bỗng dạt dào một cảm xúc tự hào, thành kính, thương nhớ Bác:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân
Ai đã từng một lần đi viếng lăng Bác mới hiểu hết hàm ý trong câu thơ của Viễn Phương. Ngày ngày, mặt trời - chúa tể của thiên nhiên - thán phục một mặt trời trong lăng rất đỏ. Mặt trời rất đỏ, hình ảnh tượng trưng cho Bác Hồ - là mặt trời cách mạng, là nguồn ánh sáng rực rỡ không bao giờ tắt, mãi mãi chiếu rọi con đường đi tới của dân tộc Việt Nam. Nhiều nhà thơ đã sử dụng hình ảnh mặt trời để thể hiện ánh sáng của lý tưởng cách mạng, nhưng đối sánh hai hình ảnh mặt trời của Viễn Phương quả là rất độc đáo. Đây là một sáng tạo nghệ thuật có tác dụng bộc lộ nội dung rất hiệu quả. Không nhiều lời, chỉ một hình ảnh mặt trời rất đỏ, nhà thơ đã khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại. Nhà thơ đã nói hộ chúng rằng: Bác Hồ là mặt trời cách mạng đẹp nhất, rực rỡ nhất, chói lọi nhất luôn luôn toả sáng trong tâm hồn người Việt Nam.
Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ. Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một một không khí thương nhớ Bác không nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.
Ngày ngày… ngày ngày …, thời gian không ngừng trôi và lòng người Việt Nam không bao giờ nguôi tình cảm nhớ thương, yêu quí, kính trọng đối với Bác.
Đặc biệt xúc động là khi vào trong lăng, thấy Bác nằm nghỉ, nhà thơ sững sờ, nghẹn ngào, đau đớn:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền,
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi ,
Mà sao nghe nhói ở trong tim
Bác nằm đó như đang trong giấc ngủ bình yên sau bảy mươi chín mùa xuân không hề nghỉ. Từ ánh điện mờ ở trong lăng, nhà thơ liên tưởng đến một hình ảnh rất đẹp: vầng trăng sáng dịu hiền. Hình ảnh đó đã đưa người đọc vào một thế giới huyền diệu, trong sáng và thanh khiết; càng gợi ta nghĩ đến tình yêu thiên nhiên, yêu trăng nồng nàn của Bác. Vầng trăng kia đã bao lần sáng lên trong thơ Người. Cả khi trong ngục: “Người ngắm trăng soi qua cửa sổ, trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”. Cả những khi bận rộn việc nước việc quân, Bác vẫn thấy “trung thu trăng sáng như gương”, “rằm xuân lồng lộng trăng soi”, “trăng ngân đầy thuyền”, “trăng vào cửa sổ đòi thơ”, “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa…” Giờ đây, Bác nằm đó, trong giấc ngủ bình yên, giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Vẫn biết rằng Bác như trời xanh, mãi mãi sống trong sự nghiệp của chúng ta. Nhưng con tim nhà thơ đau đớn vô cùng khi đứng trước Người. Mà sao nghe nhói ở trong tim, chỉ một chữ nhói cũng đủ nói lên nỗi quặn đau, thương nhớ không gì bù đắp được vì mất Bác, vì nỗi thiếu vắng Bác.
Và nỗi đau không còn kìm ném được nữa, nó trào lên dữ dội khi nhà thơ chia tay với Bác:
Mai về miền Nam, thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng
Muốn làm bông hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.
Thương Bác, thương đến trào nước mắt, một tình cảm yêu quý mãnh liệt, trọn vẹn như tình cảm của người con đối với người cha ruột thịt. Nhà thơ chia tay Bác trong tiếng khóc nấc nở nghẹn ngào. Làm sao ngăn được dòng nước mắt thương nhớ Bác-một con người vừa vĩ đại, thanh cao, vừa gần gũi thân thiết với chúng ta, một con người suốt đời hy sinh, cống hiến cho dân tộc nay vĩnh viễn nằm lại trong lăng? Nhà thơ lưu lưyến không muốn rời xa Bác, chỉ ước muốn biến thành con chim, bông hoa, cây tre, góp tiếng hót, làn hương quanh nơi Bác nghỉ cho trọn niềm trung hiếu với Người. Đoạn thơ dạt dào tình cảm, nhịp điệu thiết tha, cùng với hình ảnh cây tre trung hiếu một lần nữa truyền đến người đọc sự xúc động nghẹn ngào.
Nhà Thơ Viễn Phương |
Bài thơ ngắn, nhưng tác giả đã thành công khi sử dụng hàng loạt hình ảnh ẩn dụ mang tính tượng trưng sâu sắc. Các hình ảnh hàng tre xanh xanh, giữa bão táp mưa sa, đến các hình ảnh mặt trời rất đỏ, tràng hoa, bảy mươi chín mùa xuân, vầng trăng sáng dịu hiền, trời xanh là mãi mãi đã gợi cho người đọc thấy trọn vẹn hình tượng Bác Hồ gần gũi, cao quý, thanh khiết, vĩ đại biết bao. Ngoài ra, nó còn gợi đến hình ảnh quê hương, đất nước, nhân dân. Nhà thơ đã có nhiều dụng ý khi sử dụng các hình ảnh rất đẹp, rất lớn lao của vũ trụ: mặt trời, vầng trăng, trời xanh. Những hình ảnh đó tượng trưng cho cái vĩ đại, lớn lao của Bác Hồ. Bác như vầng mặt trời rực rỡ, như vầng trăng sáng dịu hiền, như bầu trời xanh. Ở Bác toả ra ánh sáng của trí tuệ thiên tài và lấp lánh ánh sáng của một tâm hồn cao đẹp. Còn hình ảnh hàng tre xanh xanh lại tượng trưng cho cái bình dị, gần gũi của Người. Và hơn thế nữa, tất cả các hình ảnh ấy đều gợi cho ta thấy sự bất tử của Bác Hồ. Người sống mãi trong lòng nhân dân ta, trong sự nghiệp của chúng ta. Mãi mãi là vị cha già thân thiết, yêu quý của chúng ta.
Viếng lăng Bác không những là tiếng khóc đau đớn, nghẹn ngào trước sự ra đi của Bác, là lòng thương nhớ không nguôi, lòng kính phục vô hạn của nhà thơ Viễn Phương và của nhân dân ta đối với Bác Hồ mà bài thơ còn diễn tả thành công hình tượng Bác Hồ vĩ đại bằng những hình ảnh đẹp, nhịp điệu tha thiết, cảm xúc nồng nàn chân thực. Âm hưởng của bài thơ ngân vang mãi trong lòng người đọc. Bài thơ được phổ nhạc càng trở nên truyền cảm sâu xa, làm xúc động hàng triệu trái tim Việt Nam từ 1976 đến nay.
(ST)